Suy niệm
Tin Mừng Ga
20:1-9
Các nhân chứng phục sinh
Có ba nhân chứng về Tin
Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ
tư, đó là Ma-ri-a Mác-đa-la, Phê-rô và Gio-an. Họ được coi như các nhân chứng
diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử
tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại.
Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra
làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác da-la đi đến
mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’,
Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi, ‘ông
vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giê-su.
Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’…
Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng
thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gio-an, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời
xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã
tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải
chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính
ông và của toàn nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan
truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.
Tại sao lại như vậy?;
chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng:
niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.
Phê-rô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm
một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh
nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm
khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế
nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới
mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách
chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy,
con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như
thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống,
quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với
các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn
cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ
trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới:
lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Ki-tô) vượt trên tất cả, vượt xa
hơn tất cả.
Gio-an: là môn đệ được Đức Giê-su thương mến,
ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người,
đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra
từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất
vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi
kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với
các băng vải còn ở đó, Gio-an lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ
mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh
hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một
nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng
sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không
gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải
thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giê-su đích thực là sự sống lại,
như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.
Ma-ri-a Mác-đa-la:
nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà
đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải
nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy
đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với
việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm
được giải phóng đó do Thầy Giê-su mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào
bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp
phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin
nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng
nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giê-su đã sống
lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn,
và thăng hoa sẽ là bất tận.
Là Ki-tô hữu, tôi không
chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại,
hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để
tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này: phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của
Phê-rô, hay của Gio-an, hay của Ma-ri-a Mác-đa-la, hay của cả ba gộp lại?
God bless
Lm Gioan Ty SDB
Đăng nhận xét Bình luận bằng Google Bình luận bằng Disqus
Lưu ý:
- Để bình luận, bạn phải đăng nhập bằng tài khoản Google
- Bấm vào nút Biểu Tượng Cảm Xúc và làm theo hướng dẫn để chèn Biểu Tượng Cảm Xúc